Lịch sử hình thành và phát triển Võ Cổ Truyền

"Võ cổ truyền Việt Nam không chỉ là những đòn thế – đó là linh hồn dân tộc, là lịch sử, là đạo đức, là văn hóa được chắt lọc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước."

I. KHÁI NIỆM VÕ CỔ TRUYỀN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Võ dân tộc Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời và nền tảng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Lịch sử phát triển của võ thuật dân tộc gắn liền với truyền thống thượng võ của dân tộc trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Từ ngàn đời nay, người dân Việt Nam đã dùng võ thuật để rèn luyện thân thể, nâng cao khả năng tự vệ, rèn luyện ý chí sắt đá và ứng dụng trong các trò chơi, lễ hội để giao lưu cộng đồng.

Võ là tổng hợp các bài tập rèn luyện kỹ năng, thể chất, kỹ thuật chiến thuật đối kháng của con người. Chúng được bắt nguồn từ những động tác trong đời sống thường nhật của con người ở buổi đầu sơ khai để dần hình thành nên những kỹ năng và theo thời gian những kỹ năng đó được hệ thống hóa và truyền dậy để không ngừng nâng cao khả năng tự vệ, chiến đấu của con người.

Việt Nam có nền võ thuật dân tộc phong phú, được hình thành trên các nền tảng: võ kinh, võ nghệ và võ đạo.

Võ kinh

Là phần lý luận được xây dựng trên cơ sở võ lý và binh thư, được truyền dậy cho các tướng sỹ trong quân đội.

Võ kinh là một nội dung thi quan trọng trong các kỹ khảo hạch võ quan của các triều đại phong kiến.

Võ nghệ

Là phần kỹ năng thực hành, bao gồm nhiều thể loại: kỹ năng tay không và binh khí. Hiện nay thường được gọi chung là võ thuật.

Võ đạo

Là những khái niệm mang tính triết học trong võ thuật. Võ đạo thể hiện cái đức hay cái tâm của người học võ.

II. LƯỢC SỬ VÕ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM LUÔN SONG HÀNH CÙNG LỊCH SỬ DÂN TỘC

1. Thời kỳ Cổ đại (khoảng 2900 đến 110 TCN)

Bước đầu hình thành võ thuật

Con người nguyên thủy từ thời Cổ Đại, sinh sống dựa trên thu lượm, nhặt hái các thức ăn có sẵn ở thiên nhiên và săn bắt thú rừng là chủ yếu. Những động tác, các thế rình rập, rượt đuổi, chiến đấu dần trở thành quen thuộc hàng ngày. Tiếp đến là những hoàn cảnh phải xử trí trong quan hệ giữa người và thú vật hoang dã trong lúc săn bắn, giữa con người với con người để tự vệ, để chiến đấu giữ gìn các vật thực do thành quả lao động hoặc quyền sở hữu khoảng rừng, vùng đất sinh sống. Đó là bản năng phải sinh tồn.

Tất cả các động tác chiến đấu, tự vệ, từ đơn giản đến phức tạp là nguồn gốc của các đòn thế chiến đấu, bài bản kỹ thuật của các môn phái võ, trường phái võ trên thế giới nói chung và võ cổ truyền Việt Nam nói riêng.

Tại Việt Nam, các di tích khảo cổ của thời kỳ Đồ đá như các món binh khí: búa, rìu, dao,..v.v. được làm bằng đá đẽo đã được các nhà khảo cổ tìm thấy tại nhiều vùng đất ở Bắc Bộ, Trung Bộ. Tại các hang đá người xưa sinh sống, người ta đã tìm được những hình ảnh khắc vẽ trên vách đá hình người thợ săn cầm lao để hướng lên con chim đang bay lượn trên không trung, .v..v.. , đó là những dấu hiệu của những tư thế võ sơ khai.

Dần dần, cùng với việc chiến đấu sinh tồn, bảo vệ thành quả lao động, bảo vệ cộng đồng, các động tác lao động, chiến đấu được hệ thống hoá và được nâng cao để thao diễn trong các lễ hội, vui chơi khi cao hứng. Việc lặp đi lặp lại và chọn lọc các động tác mạnh đẹp chính là sự tập luyện tạo nên hoạt động võ.

Ban đầu từ bản năng sinh tồn rồi nâng lên thành việc luyện tập từ bản năng đến có ý thức , nâng cao dần thành kỹ năng chiến đấu . lại từ chỗ dùng sức mạnh cơ bắp thuần tuý đến việc biết sử dụng vũ khí ban đầu là đá, rồi gỗ, tre, từ thô sơ phát triển thành đa năng.

Dù sao, những hoạt động lao động và chiến đấu của người nguyên thuỷ ở thời kỳ này chỉ là tự nhiên mang tính sơ khai của một loại hình hoạt động, chưa thể hiện rõ nét là võ thuật. Nó chỉ gắn với sự sinh tồn của từng cá thể , của một nhóm người, một cộng đồng. Do vậy người nguyên thuỷ chưa có ý thức về võ nhưng võ vẫn cứ phát triển chuyển dần từ hoạt động đại trà sang hoạt động của một số người, ngày càng chuyên sâu hơn .

Đến thời kỳ kim khí (đồng thau, sắt sớm), tổ tiên Việt Nam đã dần dần định cư, thành các tập đoàn mang tính bộ lạc. Đến thời vua Hùng chính là thời kỳ kim khí cực thịnh, người Âu-Lạc đã đạt được tiến bộ lớn trong các kỹ thuật trồng trọt, luyện kim để làm ra các dụng cụ lao động và các lọai binh khí sắc bén như rìu búa chiến, dao, kiếm..v…v.. (vũ khí đánh gần), côn, giáo, lao..v…v.. (vũ khí đánh xa), khiên chắn, đồng hộ tâm,..v…v.. (phương tiện bảo vệ) để cho các Lạc hầu, Lạc tướng và binh sĩ tập luyện, chiến đấu.

Trong các di chỉ khảo cổ, người ta đã đào được nhiều loại binh khí khác nhau như rìu đồng trên lưỡi chạm trổ nhiều hoạt tiết hoa văn, trong đó có cảnh hai người đang đấu võ. Tất các các điều đó chứng tỏ võ thuật ở thời kỳ này đã nâng cao hơn trước. Võ đã bước đầu hình thành, được hệ thống từ căn bản đến chuyên sâu và được luyện tập thường xuyên.

Thời kỳ này là thời kỳ đã có các cuộc chiến đấu trong ngoại xâm, các cuộc chiến đấu của thời kỳ vua Hùng chống giặc Ân, Thương, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống quân Tần của An Dương Vương Thục Phán là những cuộc thực hành ứng dụng võ chiến đấu, đúc rút kinh nghiệm chiến đấu và làm phong phú hơn. Người Âu-Lạc đã có dành được nhiều chiến thắng oanh liệt trước quân xâm lược từ phương Bắc vốn là nơi có nền võ thuật phát triển sớm và phong phú, điều này chứng tỏ võ dân tộc lúc đó đã có những sự độc đáo và lợi hại trong chiến đấu. Đặc biệt, trong lịch sử cũ có lưu danh một vài vị Lạc hầu, Lạc tướng giỏi võ như ông Cao Lỗ giỏi vật, bắn cung chế ra nỏ thần, ông Nồi Hầu và các con là ông Đông, ông Vực đều là võ tướng giỏi võ vật,..v.v..

2. Thời kỳ Bắc thuộc (từ 110 TCN đến 939)

Võ cổ truyền Việt Nam hình thành và đương đầu thử thách

Đây là thời kỳ lầm than nhất từ trước đến nay trong lịch sử dân tộc. Nước Việt là một vùng đất hẹp, người thưa, ở ngay sát một quốc gia phong kiến phương Bắc to lớn và hùng mạnh, không ngừng nuôi ý đồ muốn thôn tính và đồng hoá thành một châu huyện của họ. Với một ý thức quốc gia độc lập, truyền thống của dân tộc bất khuất, thượng võ đã hình thành sâu sắc trong con người đất Việt.Trong đêm dài của hơn nghìn năm Bắc thuộc, liên tục lớp sau nối tiếp lớp trước, người Việt đứng lên khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập rồi lại bị đàn áp trong bể máu rồi lại khởi nghĩa.

Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng cùng các vị tường lĩnh giỏi võ vật như Lê Chân, Thiều Hoa, Nguyễn Tam Trinh,.v….v…, rồi cuộc khởi nghĩa của bà Triệu là một trang võ sử hào hùng của dân tộc, một nét đẹp độc đáo của người phụ nữ Việt Nam. Đến quân xâm lược phương Bắc cũng phải thốt lên:

"Hoành qua đường hổ dị
Đối diện bà Vương nan"

Tiếp sau đó là các cuộc khởi nghĩa của Lý nam Đế, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Mai Thúc Loan,…v....v…, các danh thủ võ càng đóng góp tích cực và có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất rõ rệt đến công cuộc giải phóng dân tộc. Chính trong thời kỳ này, võ thuật Việt Nam đã được định hình rõ rệt, liên tục được chứng nghiệm trong chiến đấu và là động lực sức mạnh của con người đứng lên phá gông xiềng, là niềm tự hào dân tộc. Các vị anh hùng dân tộc ở thời kỳ này đều xuất thân từ giới võ vật, dùng võ vật làm vũ khí chiến đấu chống quân thù.

Trong thời kỳ này, đứng trước nhu cầu cấp bách của đất nước, người Việt phải luôn tìm tòi, sáng tạo, học hỏi để tạo ra những cách chiến đấu, những kỹ thuật võ riêng biệt, độc đáo phù hợp với tố chất con người Việt, thích nghi với điều kiện địa lý, xã hội, làm cho con người Việt nam đủ sức chiến đấu với những kẻ thù phương Bắc to khoẻ, được huấn luyện võ thuật bài bản. Chính từ nhu cầu không ngừng chiến đấu trong hơn mười thế kỷ, người Việt Nam đã có một động cơ mạnh mẽ để liên tục không ngừng tìm tòi, sáng tạo, đúc kết ra những kỹ thuật võ đặc dị, đơn giản nhẹ nhàng nhưng hiệu quả và luôn được kiểm nghiệm bằng thực tế chiến đấu. Võ thuật Việt nam đã trải qua một trường huấn luyện cực kỳ khắc nghiệt, khẳng định được vai trò trong lịch sử.

3. Thời kỳ độc lập tự chủ (X - XV)

Võ cổ truyền Việt Nam phát triển gắn liền với củng cố độc lập dân tộc

Tại giai đoạn lịch sử này, sử cổ chưa có những ghi chép riêng biệt về sự phát triển của Võ Việt Nam, nhưng qua những sự kiện lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta đã thể hiện được vai trò của Võ Việt Nam trong tổ chức quân sự của nhà nước Việt Nam lúc đó, và qua các trò chơi dân gian giàu tính thượng võ ta cũng có thể hình dung được sự phát triển của võ thuật trong dân gian.

Thế kỷ thứ X là một bước ngoặt quan trong trong lịch sử Việt nam. Sau hơn một nghìn năm của đêm trường nô lệ, người dân Việt bước ra ngày mới của kỷ nguyên độc lập tự chủ.

Võ Việt Nam ra đời trong buổi đầu dựng nước, được thử thách và kiểm nghiệm trong nghìn năm đấu tranh giờ đây lại có điều kiện phát triển vững chắc và hoàn chỉnh hơn.

Năm 938, chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng của quân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền đã giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi sự đô hộ của phương Bắc và mở đường cho các triều đại Đinh-Lý-Trần- Hồ độc lập tự chủ ở phương Nam.

Võ Việt Nam ra đời trong buổi đầu dựng nước, được thử thách và kiểm nghiệm trong nghìn năm đấu tranh giờ đây lại có điều kiện phát triển vững chắc và hoàn chỉnh hơn. Giai đoạn này, dân tộc ta lại phải đối chọi với những cuộc ngoại xâm với quy mô lớn của phong kiến phương Bắc và đấu tranh gìn giữ, mở mang bờ cõi ở phương Nam, do vậy võ thuật lại càng có dịp để khẳng định vai trò trong lịch sử và phát huy tiếp tục những gì đã gây dựng được. Trong các thế kỷ trước võ tham gia vào quá trình dựng nước thì ở thời kỳ này võ tham gia vào sự nghiệp giữ nước.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, nếu Nho giáo theo chân bọn thống trị ngoại tộc và làm công cụ để đô hộ thì Phật gáo đã được thâm nhập một cách hoà bình và gắn với tín ngưỡng bản địa nên thành ngọn cờ để tập hợp những người yêu nước. Các triều Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ đều rất kính trọng tăng ni, nhiều vị sư đã giúp đỡ triều đình rất đắc lực trong nhiều việc. Nhà chùa không chỉ là nơi tu hành mà còn là trường học văn và võ của nhân dân, sinh ra nhiều vị anh hùng, võ tướng thủ lĩnh nghĩa quân giỏi võ. Ngoài ra, các nhà chùa luôn gắn với nơi thôn dã, gắn với các lễ hội dân gian. Tại các lệ hội thường hay có biẻu diễn võ thuật và các trò chơi mang tính thượng võ. Phổ biến nhất trong các trò chơi là đấu vật. Có rất nhiều lò vật nổi tiếng trên nhiều vùng miền cả nước mà vẫn còn tồn tại đến ngày nay như. Là Mai Động, Quỳnh Đô, Cổ Loa, Dục Tú, Nam Hồng (Hà Nội), Cao Đức,Thịnh Đức (Bắc Giang),..v.v... Ngoài ra, còn có các cuộc đấu võ thường xuyên không chỉ tay không mà cả binh khí như. gậy, đao, thiết lĩnh, trung bình tiên, roi,..v…v…

Từ cơ sở võ học dân gian, các cuộc rèn tập dân binh, binh lính được tổ chức đều đặn khắp nơi, việc tuyển lính và chọn tướng, xây dựng các đội chuyên nghệp với từng loại danh thủ võ,.v..v. qua đó, các triều đại phong kiến Việt Nam đã khai thác, phát huy và tạo thành khuynh hướng trọng võ trong toàn dân để giúp ích cho quá trình gìn giữ đất nước. Nhờ vậy mà trong thòi kỳ này, chính quyền phong kiến đã có những võ công hiển hách như. “Phá Tống, Bình Chiêm”; 3 lần đánh tan quân Nguyên,..v..v.

Võ sỹ là người dân đinh, là binh lính, là danh tướng hay võ sư,..v..v.., võ đã được mở ra ở diện rộng nhưng ít chú ý đến những danh thủ trội, cả những võ sỹ trong đội tuyển của triều đình hoạt động chuyên võ nhưng cũng không lưu danh riêng. Tất cả chỉ nhằm mục đích chung là giữ nước, giữ gìn danh dự dân tộc, độc lập quốc gia.

4. Thời kỳ phong kiến quân chủ (XV – XIX)

Võ cổ truyền Việt Nam gắn với các hoạt động võ vật dân gian

Thời kỳ từ thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 19 được mở đầu bằng một một chiến thắng vang dội, đánh tan quân xâm lược nhà Minh, lập nên triều Hậu Lê, thành lập một nhà nước quân chủ chuyên chế và kết thúc bằng những ngày tàn triều Nguyễn. Với chủ trương hạn chế Phật giáo (khác với thời kỳ trước) và độc tôn Nho giáo, đây là thời kỳ quân chủ nho giáo và đề cao văn học. Tuy dùng võ làm vũ khí tinh thần nhưng các triều Lê Sơ, Mạc, Lê trung hưng, Nguyễn vẫn dùng võ làm phương tiện duy trì sự thống trị. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, các cuộc đấu tranh dân tộc tuy ít nhưng đấu tranh dân chủ lại thường xuyên và quyết liệt, đấu tranh trong nội bộ quý tộc phong kiến cũng kéo dài và phức tạp. Chính quyền huấn luyện võ nghệ, binh pháp cho quân đội để bảo vệ lợi ích của mình. Bên cạnh đó, trong sự gò bó của đạo đức Khổng Mạnh, truyền thống dân chủ vẫn được duy trì một mức nào đó ở làng xã, tạo ra thế cân bằng trong các kỳ lễ hội, do vậy võ thuật dân gian có mảnh đất để phát triển. Phong trào tập luyện võ thuật dân gian đã hình thành, tạo dựng được ở thời kỳ trước, đến thời kỳ này đã phát triển mạnh mẽ, có một bản sắc riêng và có vai trò quan trọng trong đấu tranh dân chủ.

Võ trong dân gian ngày thường là để bảo vệ thôn xóm, đến lễ hội là dịp thao diễn đua tài, giải trí, khi cần có thể bổ sung binh lính cho triều đình. Và khi có sự bất bình, chống đối bất công thì hoạt động võ dân gian lại cung cấp các nghĩa quân cho các cuộc khởi nghĩa nông dân.

Trong thời kỳ này, rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra làm lung lay sự thống trị của triều đình phong kiến, đỉnh cao là phong trào khởi nghiã Tây Sơn với kỳ công đánh tan 20 vạn quân Thanh. Phong trào Tây Sơn đã quy tụ được nhiều võ sỹ dân gian,nhân tài võ thuật để gây dựng nên được đội nghĩa binh nông dân với vũ khí là võ cổ truyền dân gian. Với việc khôi phục chế độ quân chủ triều Nguyễn, bên cạnh tổ chức võ của triều đình, có các hoạt động sôi nổi của võ dân gian. Trong thời gian của Trịnh Nguyễn phân tranh, do nhu cầu củng cố mở rộng quyền lực ở Đằng Trong, chúa Nguyễn đã thu dụng nhiều người Minh hương (người Trung Quốc rời bỏ tổ quốc do phong trào Phản Thanh phục Minh). Theo bước chân những người Trung Hoa đó, các võ phái Trung Hoa đã ồ ạt vào xứ Nam Hà, do vậy các hoạt động võ thuật dân gian ở Đằng Trong bị ảnh hưởng nhiều của võ thuật Trung Hoa trong khi ở Đằng Ngoài vẫn giữ được đường nét truyền thống.

Sau khi đánh bại được nhà Tây sơn, triều Nguyễn được thành lập nhưng do đối lập với nông dân nên liên tục xảy ra các cuộc khởi nghĩa nông dân, cho đến khi thực dân Pháp xâm lược thì phong trào khởi nghĩa đòi dân chủ chuyển thành phong trào khởi nghĩa chống Pháp. Thời gian này, nhà Nguyễn tìm cách hạn chế hoạt động võ thuật của quần chúng nhưng do gắn liền với các hoạt động dân gian, võ cổ truyền vẫn tồn tại. Khi nhà Nguyễn thể hiện sự nhu nhược đầu hàng Pháp thì dân gian lại dấy lên nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp, võ nghệ dân gian lại được phát huy cao độ và tích cực, tạo nên sức mạnh quân sự chống lại quân xâm lược phương Tây, có hiệu quả quan trọng và gây nên tiếng vang trong lịch sử. Để lưu truyền trong dân gian,, ở nhiều địa phương đã dần hình thành các lò võ vật, các trường dậy của cá nhân, hình thành môn phái riêng. Chính trong các phong trào đấu tranh dân chủ và chống Pháp xâm lược, các môn võ dân tộc được dịp thể nghiệm trong chiến đấu và phát triển.

5. Thời kỳ hiện đại (thế kỷ XX đến nay)

Võ cổ truyền giữa chiến tranh và thời bình

Từ cuối thế kỷ 19 trở về sau, với sự tấn công của Chủ nghĩa tư bản phương Tây có sức mạnh quân sự từ xa, thì khoa học quân sự Việt nam với trận pháp, kỹ thuật chiến đấu tay không và vũ khí thô sơ trở nên lạc hậu với súng đạn. Tính quân sự của võ thuật từ chủ công giờ bị đẩy xuống hàng thứ yếu và bị thu hẹp lại. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, quân đội không được học võ. Trường võ của triều đình bị giải tán, khoá thi võ bị bãi bỏ. Các môn TDTT của phương Tây được đưa vào thay cho võ thuật. Võ cung đình hầu như bị xoá bỏ. Chính quyền đô hộ đã được biết võ cổ truyền là vũ khí nghuy hiểm cho sự thống trị nên đã ra sức ngăn cấm.

Tuy nhiên, võ cổ truyền do có cả một thời gian dài ăn sâu bám rễ vào dân gian, mang thuộc tính văn hoá bản địa nên vẫn cứ tồn tại tuy ít nhiều bị ảnh hưởng. Người dân học võ bây giờ không phải để đi thi võ mà để cường thân kiện thể, giữ đạo lý làm việc thiện, bảo vệ làng xóm và khi cần tham gia vào nghĩa quân, vệ quốc quân.

Sau năm 1945, tuy Việt Nam giành được độc lập nhưng đất nước lại phải trải qua 30 năm chiến tranh với 2 cuộc chiến khốc liệt. Võ cổ truyền lúc này được cô gọn, tinh lược lại thành các bài bản, miếng võ, thế võ chiến đấu đơn giản, hiệu quả trang bị cho vệ quốc quân, cho quân giải phóng. Chúng ta đều đã biết các chiến sỹ vệ quốc quân Nam bộ với gậy tầm vông, giáo mác ; các chiến sỹ tự vệ thành Hà Nội với mã tấu, kiếm đã dũng cảm chiến đấu với quân thù có súng đạn đầy đủ như thế nào, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ. Các chiến sỹ đặc công, biệt động với những đường võ cổ truyền được tinh giản đã làm cho lính Mỹ phải sợ hãi.

Sau năm 1975, đất nước được thống nhất, Võ cổ truyền lại được phục hồi lại. Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam và Liên đoàn thế giới võ cổ truyền Việt Nam được thành lập là dấu hiệu tốt cho thấy sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với bộ môn Võ cổ truyền dân tộc.

III. HỆ THỐNG TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP VÕ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

1200+

Môn phái, Võ phái, Võ đường, CLB Võ thuật cổ truyền trên toàn quốc

10+

Quốc gia & vùng lãnh thổ

1991

Liên đoàn quốc gia thành lập